Kiến trúc – Nghệt thuật GƯƠL của người Katu và việc bảo tồn, phát triển du lịch

Kiến trúc – Nghệt thuật GƯƠL của người Katu và việc bảo tồn, phát triển du lịch

Tiếp xúc với văn hóa của người Katu –một tộc người cư trú trải dài từ phía Tây tỉnh Quảng Nam, TP Đà Nẵng đến Tây Nam tỉnh Thừa Thiên Huế và rộng đến nước bạn Lào – tỉnh Sêcông. Điều đầu tiên gây ấn tượng cho những ai thích Kiến trúc- Mỹ thuật truyền thống, mang dấu ấn bản địa… đó là những hình dáng của mái nhà sàn và phần chạm khắc, tô vẽ trên ngôi nhà cộng đồng – Gươl. Trong bài viết này tôi xin ghi lại khá chi tiết những cảm nhận khi trực tiếp đo, vẽ, chụp ảnh và phỏng vấn.… khi tìm hiểu những ngôi nhà cộng đồng này từ những năm cuối 80 của thế kỷ 20 (địa bàn miền núi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, tỉnh Thừa Thiên Huế) đến hôm nay là vùng Hòa Bắc của TP Đà Nẵng (*). Mong muốn góp vài nhận xét về cách tạo hình truyền thống và sự giao thoa, tiếp thu cái mới trong kiến trúc – nghệ thuật từ miền xuôi lên miền ngược. Góp thêm về việc Bảo tồn và phát triển du lịch. Qua những chuyến đi thực tế, điền dã, tôi có cơ hội tiếp xúc với Kiến trúc của người Katu từ năm 1985, gần đây được trở lại hai huyện Đông Giang và Tây Giang (Quảng Nam), huyện Nam Đông (Thừa Thiên Huế) và nay là thôn Giàn Bí, thôn Tà Lang, xã Hòa Bắc (huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng) (ảnh A, ảnh B). Những tỉnh, TP, thị trấn, huyện, xã với địa bàn sinh sống của người Katu nhưng hôm nay đã có thay đổi, trong đó có những kiến trúc truyền thống là nhà ở/Đông và nhà Cộng đồng/Gươl, cả nhà Mồ/ Pink (ảnh C) đã được phục dựng.

Gươl làng văn hoá KATU Tây Giang
Gươl thôn Giàn Bí,Hòa Bắc

Kiến trúc nhà cộng đồng – GƯƠL

Tóm tắt sơ lược kiến trúc cộng đồng nầy có tên gọi là Gươl, Gưal (***). Là ngôi nhà chung của làng, giống như nhà Ưng của người Giẻ Triêng ở miền núi huyện Phước Sơn (Quảng Nam) và các huyện tiếp xúc với phía Bắc tỉnh Kom Tum. Và nhà Rông của người Bhana, Xê Đăng ở Bắc Tây Nguyên (1). Kiến trúc được mọi người cùng góp sức tạo dựng lên với tâm thức: “Chưa có Gươl như chưa có làng”. Trong quá trình từ lúc khởi công đến lúc hoàn thành ngôi nhà cộng đồng, các thành viên của làng đều được tham gia như người lớn, già làng có vai trò lớn là chọn đất dựng Gươl; người nam vào rừng chọn cây; người nữ chọn lá lợp nhà… nghĩa là có sự phân công hợp lý, phù hợp với sức khỏe, năng khiếu của những người trong làng. Sự giống nhau về ý tưởng để tạo nên những ngôi nhà cộng đồng cho những sinh hoạt chung của làng là nét phổ biến được các tộc người vùng Đông Nam Á gìn giữ bao đời nay. Thế nhưng kiểu dáng nhà cộng đồng Gươl của người Katu ở miền Trung Việt Nam là một kiểu kiến trúc độc đáo. Trong nhóm Katuic gồm: Katu, Tà ôi, Pacô, Bru – Vân Kiều có địa bàn từ miền núi Quảng Nam đến Thanh Hóa, tức là vùng Trường Sơn, với các kiến trúc có nét tương đồng, chỉ có tên gọi khác nhau (2). Một chi tiết được điêu khắc trên trống cổ Đông Sơn về một người đang đánh chiêng đứng giữa cửa nhà với hai đầu hồi uốn cong cùng mái cong; kiểu nhà có mái khum và có chân như con rùa của dân tộc Thái; xa hơn, xem thêm kiểu nhà Mangarai, Timor (Đông Nam Á hải đảo) thì có dạng mái hình mai rùa như Gươl của người Katu ở miền Trung Việt Nam. Kiến trúc của Gươl có 2 kiểu dáng: Hình tròn như cái nón gọi là Choong Gươl (đã từng xuất hiện ở thôn Tống Cói, xã Ba, huyện Đông Giang, đã bị hỏng năm 2008 và nay đã không được phục dựng); loại thứ hai phổ biến với hình chữ nhật có mái hai đầu hồi dáng cánh cung, mái khum như mai rùa. Chi tiết bên trong nội thất cũng có sự thay đổi như 4 vách tựa bằng gỗ được đặt nghiêng ra phía ngoài ở cạnh trên, hoặc đặt thẳng. Với vách đặt nghiêng có hình thái của kiến trúc bằng tre đan của Gươl ban đầu (3). Phần sàn cũng có hai loại: Một là cùng code sàn, đan bằng tre đập dập, hoặc sàn vị trí cao hơn khoảng từ 300 đến 400 ở hai đầu hồi. Với loại có code chênh thì phổ biến ở vài xã ở Nam Giang, Đông Giang, Tây Giang và Hòa Bắc, TP Đà Nẵng. Với Gươl hình tròn thì bên trong chỉ có cậy cột giữa và các cột quay tròn chung quanh, loại này sàn thấp và có hai cửa ra vào. Gươl hình chữ nhật có hai đầu uốn cong hình cung tạo nên hình thuẫn hay oval là phổ biến đến hôm nay. Đầu tiên là bộ phận kiến trúc cây cột cái hay cột mẹ ở giữa nhà (tượng trưng cho cột bố) cao đến nóc, phụ đỡ mái là 6 cột mẹ và 6 cột con, tất cả là 13 cột, rộng hơn là 8 cột mẹ, 6 cột con và cột mẹ ở giữa, tổng cộng 15 cột. Các liên kết chủ yếu với kiểu mộng ngoàm liên kết các thanh kèo gỗ được đẽo trên nhỏ, dưới lớn. Kết hợp việc cột, buộc bằng dây mây dây rừng, lạt (tre) ở đầu cột hoặc cột tre với gỗ (kèo gỗ với đòn tay tre). Tôi không nhớ hết mình đã kéo thước đo bao nhiêu Gươl từ Hiên đến Giằng – tên cũ của Đông Giang, Tây Giang và Nam Giang hôm nay. Từ những năm 1985 đến nay, năm nào cũng trở lại thăm vài vùng núi của miền Tây Bắc – Quảng Nam, quan sát những ngôi nhà truyền thống mái lợp tranh, lá đang bị mất dần khi người miền núi đang chịu ảnh hưởng của kiến trúc miền xuôi. Việc đo lại những Gươl đã xây dựng và những Gươl mới xem là một thói quen về nghề nghiệp, như công việc bảo tồn, không cho phép ta bỏ qua. Tuy nhiên, phải nói chính sự hấp dẫn của cái mái cong ở đầu hồi, xinh xắn như cái mai rùa, không giống bất cứ kiến trúc của các dân tộc láng giềng ở vùng Trường Sơn và Tây Nguyên mà mái gươl của người Katu đã tạo nên sự bí ẩn. Năm 93-96 của thế kỷ 20, GS.KTS Shiigeda Yukata người Nhật (bản vẽ 1,2,) đã bị hấp dẫn bởi những ngôi nhà có mái hình mai rùa này nên đã lặn lội đến làng Zara, xã Tabhing huyện Giằng để nghiên cứu. Có cái gì đó trông như mái nhà của người Ainu – tộc người cổ bản địa ở phía bắc Nhật Bản (4). Và rất giống việc tôn thờ con vật thiêng con trâu – nên hình tượng lặp lại kiểu trang trí các mô típ đầu trâu trên ngôi nhà truyền thống TongKonan của người Toraja ở Sulawesi, Indonesia. Thông qua tài liệu sách báo…, cùng những thông tin trên internet, ta có thể biết được nhiều kiểu nhà, những kiến trúc dẫu ở nơi rất xa nhau nhưng lại có những điểm giống nhau kỳ lạ! Sự chọn lựa ngẫu nhiên hay cố ý theo yếu tố vật thờ chắc chắn đặt nặng lên đôi tay và khối óc của những nhà “thiết kế cổ xưa”, để cho ra kiểu kiến trúc độc đáo của từng tộc người.

Tháng 5/2011, tôi đi thăm trở lại những mái Gươl từ Nam Giang đến Tây Giang. Lần này với người bạn KTS trẻ đang làm đề tài nghiên cứu thạc sĩ về kiến trúc này (bản vẽ 3, 4, ghi trong chuyến điền dã của tác giả bài viết). Ở vùng núi vào mùa này nắng nóng rát, buổi chiều thường có những cơn mưa giông lớn và kéo dài, chúng tôi vẫn thong thả ngồi trong mái Gươl đo vẽ, buổi trưa nóng thì ngã lưng trên sàn tre êm ái đón gió. Kiến trúc Gươl được bố trí ở tâm của làng, những ngôi nhà ở bao quanh Gươl theo hình ôval, thường được dựng gần dòng suối (bản vẽ minh hoạ) và khách được ưu tiên nghỉ ngơi bên trong, vách ngăn che chắn thấp dễ dàng nhìn cảnh vật bên ngoài và đón gió mát trong tiếng nhạc suối vang vọng từ phía sau… Ông Le Pichon – một vị quan ba người Pháp đầu thế kỷ 20 với những tình cảm sâu đậm về người Katu, ông đã ghi lại cảm nhận khi nghỉ lại bên trong Gươl “ … Nhà Gươl bao giờ cũng được dựng cẩn thận với mặt bằng như nhà ở, song thường rộng hơn nhiều, chúng tôi đã từng ngủ tới hơn trăm con người trong Nhà Gươl ở làng A Ro (nay thuộc huyện Đông Giang – Quảng Nam) mà vẫn cảm thấy rất thoải mái …”. Đặc biệt, với kiến trúc này ngoài công năng: Nơi ngủ của trai làng chưa vợ; đón khách (có bếp dành cho khách) còn có ý nghĩa là nơi (bên trong) không được gây gổ, ẩu đả, không dùng hung khí sát thương nhau dẫu là kẻ thù.

Bản vẽ minh hoạ, độ đốc mái,khung đỡ mái Gươl
(Nguồn KTS Tiến Lâm và HS Nguyễn Thượng Hỷ)

Người Katu đã đóng góp vào kho tàng kiến trúc dân gian ngôi nhà cộng đồng – Gươl – với cách ứng xử hợp lý và khôn ngoan với môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, hàng năm thường xuyên bị đe dọa bởi những cơn bão biển Đông. Tôi dự đoán rằng: Ngày trước những ngôi làng Katu ở vùng Hòa Bắc cư trú gần sát cửa biển Nam Ô, bên dòng sông Cu Đê. Và với tri thức bản địa, biết ở địa bàn luôn có gió lớn, nên chính mái nhà xuôi, tròn, uốn cong mềm mại đã “hóa giải” những cơn bão mạnh. Vì vậy, nếu ta thử dựng một ngôi nhà cộng đồng có mái đứng hứng đầy gió (hình lưỡi rìu) như Rông ở Bắc Tây Nguyên thì không phù hợp ở địa bàn cư trú này.

Mặt đứng nhà Guol (Nguồn: Tác giả)

Tính truyền thống trong kỹ thuật thiết kế kết cấu và nghệ thuật trang trí tạo dáng trên các cấu kiện gỗ của GƯƠL

  • Kiến trúc này có bộ khung đỡ mái chủ yếu bằng gỗ và cây cột giữa (Zơ Rmâng), cột mẹ thường được chọn loại cây gỗ Trai (X’riếng) vì chịu được nước khi chôn lâu dưới đất.
  •  Khi dựng nhà không tạo một bộ vì như người Kinh mà phải dựng từng cột riêng lẻ (5).
  •  Do công cụ làm nhà đơn giản là rìu, dao, rựa nên kỹ thuật liên kết cột (chiều đứng) với xà (chiều ngang) lẫn chiều nghiêng như kèo không ăn mộng xuyên qua và có chốt nêm. Chỉ là hình thức với kỹ thuật gá lắp, đục thủng rồi ăn vào, kết hợp cột bằng dây mây. Để nối dài cột hay ván chủ yếu dùng mộng đuôi cá (bản vẽ B).
  •  Cột thường dùng rìu, dao đẽo, để màu tự nhiên của gỗ, không sử dụng véc ni.
  •  Chiều cao từ đất đến sàn thấp (từ 120cm đến 160cm).
  •  Các tấm ván cần phải chạm khắc được sử dụng nguyên tấm (ví dụ không chạm hình đầu trâu riêng lẻ rồi gắn vào).
  •  Các tài trang trí chạm khắc chủ yếu dùng hình tượng, biểu tượng như hệ động vật, thực vật các vị thần gần với đời sống chung quanh nơi cư trú hay tâm thức quan niệm của người miền núi).
  •  Màu sắc tô vẽ đơn giản chủ yếu khai thác tại chỗ các vật liêụ như than gỗ, đá màu nhặt tại suối, vôi… và cũng hạn chế tô vẽ trên bề mặt đã điêu khắc.
  •  Công cụ để tạo hình như dao khắc, rìu để đẽo… không tạo bề mặt láng thường để nhám, thô mộc.

Cách dựng Gươl

Không dựng nhà như người Kinh ở vùng xuôi (tạo nên bộ vì (vài) (5)), dựng nhà Gươl là phải dựng cây cột bố trước, cột mẹ, cột con dựng sau, đến lặp đặt đòn đông, rồi mới đến các thanh kèo. Cách lợp tranh (hoặc lá mây, lá cọ) cũng có điểm khác – đó là tấm trên lợp trước, tấm dưới lợp sau, cùng những vòng cung đồng tâm thu nhỏ đến nóc tạo nên đầu hồi làm cho ngôi trở nên cao hơn và hấp dẫn hơn khi mái tranh này được hun khói từ hai bếp đặt ở hai đầu bên dưới. Hôm nay lớp tranh, lá đang bị mất dần khi người miền núi đang chịu ảnh hưởng của kiến trúc miền xuôi. Kiểm tra những số đo những tương quan về tỉ lệ giữa chiều rộng, chiều dài với chiều cao nhà cũng như tỉ lệ từ đất lên sàn, từ sàn đến nóc mái và quan trọng nhất là độ xuôi mái bao nhiêu độ để có mái gươl đẹp nhất!

Điều làm chúng tôi quan tâm nữa là sự phân chia hợp lý của tỉ lệ phần mái lá với thân nhà. Khi đứng bên ngoài quan sát Gươl, ta chỉ cảm nhận được mái Gươl này đẹp hơn mái Gươl kia, nhưng chưa thể lý giải được vì sao? Vài thông tin về kỹ thuật làm Gươl mà chúng tôi có được từ anh Arắc Sự, cán bộ phụ trách văn hóa xã Chaval, huyện Nam Giang cung cấp. Như những qui ước rộng – dài với nhà rộng 5m thì chiều dài 7 m xem như tỉ lệ 5/7, hay chiều rộng nhà bằng chiều dài của kèo đỡ mái là những thông tin khá lý thú mà bước đầu chúng tôi tiếp nhận được. Qua những gì thu thập được, tôi xin mạnh dạng đưa vài số đo cụ thể, thể hiện mối tương quan về tỉ lệ của chiều rộng với chiều dài Gươl: Một số kích thước giữa chiều dài, chiều rộng củaGươl và tương quan tỉ lệ của chúng.

Đây là số đo phủ bì của chiều dài và chiều rộng của mái Gươl khi đã phủ tranh. Thoạt nhìn, ta chỉ có thể quan sát được mặt đứng là mặt chính của Gươl còn phần mặt bên hay chiều rộng có thể khó nhận biết hơn. Thường thì khung bằng gỗ bao quanh làm vách lửng cho mọi người ngồi bên trong sinh hoạt (gninh hay kninh – bản vẽ A) cũng đã cho ta những tỉ lệ rộng – dài tương ứng là 5/7, 6/10 (Gươl ở tại huyện ủy Tây Giang cũng có chênh lệch nên không có trường hợp chiều dài gấp đôi chiều rộng). Và lưu ý các cột con – tnar acăn và tnar acon là cột lửng (bản vẽ A, hình3D với tên gọi) nên phần vách này có nhiều khi được mở rộng thêm đến hết đầu hồi. Đa số kích thước của vách này cũng theo tỉ lệ của mái tranh phủ bên ngoài. Đứng xa nhìn mặt chính với phần mái Gươl cần lưu ý độ nghiêng của hai mái hồi tức là độ dốc của hai mái hồi (6) (thường 600 là độ nghiêng của mái trước và mái sau – bản vẽ A minh họa độ dốc). Một điều đáng lưu ý là tỉ lệ của phần giới hạn mái tranh – từ nơi đầu tranh đến mặt đất so với chiều cao của toàn nhà. Sẽ quá cao nếu từ nền đất đến đầu tranh quá 2.300 (mm)với một Gươl có kích thước trung bình. Từ đó, tôi tạm nhận xét số đo từ nền đất đến sàn, không nên quá 2.000mm (số đo tôi ghi được ở những Gươl đẹp thường chỉ 1.200 đến 1.600). Quan sát, nhìn ngắm thật lâu để chọn Gươl đẹp chúng tôi tạm kết luận Gươl của trong khuôn viên của huyện ủy (7) (dựng vào năm 2011) là Gươl đẹp. Trường hợp Gươl của thôn Giàn Bí cao đến 1.950mm, thôn Tà Lang 1.680 là Gươl có mái đưa ra ngắn quá! (phần đua mái từ cột ra giọt nước của lá tranh). Thêm số đo như bản trên nhưng với độ dốc 57 độ, kết hợp phần nền đất đến mái tranh lớn đến 4.250 trong tổng thể chiều cao nhà từ nền đến nóc 9.100 (thôn Tà Lang) và 9.600 (thôn Giàn Bí), nên ngôi nhà cảm giác nhà bị cao “xỏn” lên!. So sánh với Gươl có kích thước trung bình (chiều dài với 13 cột) thì chiều cao từ nền đất lên mái tranh chỉ nhỉnh trong kích thước 2.200 đến 2.400 và sàn ngoài (bậc cấp cuối cùng) đến mái tranh chỉ cao không quá 1200, trong tỉ lệ chiếm tổng thể chiều cao đến nóc nhà là 6.700 là Gươl có tỉ lệ đẹp. Qua các số liệu trên, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ giữa chiều cao mái tranh so với chiều cao toàn nhà là 2/3. Đã có nhiều Gươl đẹp như Gươl thôn T,Gêr xã Avương, Tây Giang nay đã mất (người viết đã đo vẽ năm 1995)

Mỹ thuật trong kiến

Gươl, vật liệu mới nhưng vẫn giữ yếu tố bền vững
Đầu hồi bên trong của Gươl

trúc Gươl

Có thể khẳng định rằng: Gươl của người Katu có mái cao, hai đầu mái hồi uốn cong hình cung và thường dùng hình chim (chim T’ring) (hình 9) hoặc cặp gà trống – mái trang trí ở hai nóc, đan vào giữa là tấm tacooi được tô vẽ các hoa văn hình học hoặc dáng người phụ nữ đang múa (da dá) bằng hai màu chính đen và đỏ. Diềm nóc mái được chặn giữ bằng tấm gỗ hình răng cưa, cũng được tô vẽ. Các cặp thanh gỗ đầu cong như sừng trâu có công năng giữ tranh lợp của hai mái vừa tăng thêm vẽ duyên dáng của mái. Ngôi nhà cộng đồng này là nơi được thể hiện nhiều đề tài trang trí. Các tác phẩm điêu khắc và các hình vẽ được tô màu từ nguyên liệu như đá ở suối (đỏ, trắng), từ than củi (đen). Chính sự đối lập, kìm hãm lẫn nhau của màu đỏ và sắc đen làm Gươl toát lên vẽ linh thiêng. Đề tài trang trí rất phổ biến thể hiện gần gũi với đời sống của cư dân miền núi, những con vật của núi rừng như: Trâu, lợn rừng, chó, hươu, nai, cá sấu, kỳ đà, chim, và các loài cây cỏ có ích với con người như: Cây lúa, cây đùng đình, cây tà vạt (làm rượu). Các hình khắc, vẽ cách điệu thành hình kỷ hà như rau dớn, lưng con thú, và hình các vị thần, quỉ giữ nhà, giữ bếp… đều được thể hiện trên các mặt gỗ của Gươl như cột, xà, xuyên, tấm vách ngăn, bậc cấp.

Những thay đổi về dựng GƯƠL ngày nay

Do được tiếp xúc với các công cụ mới hiện đại do người Kinh mang lên khi thi công các công trình mới như các loại đục gỗ, bào, cưa và nhất là các máy chạy bằng điện, pin như máy cưa, máy bào, máy khoan… cũng như vật liệu để tô vẽ (các phẩm màu, hóa chất). Và chính sự không chọn lọc, bắt chước cả việc người miền xuôi, đã trực tiếp góp phần tạo nên một Gươl khác trong thị giác.

  •  Cột giữa không nhất thiết phải là loại gỗ x’riếng và thay bằng bê tông có đế hình quả bí (kiểu của người Kinh) thay thế.
  •  Sử dụng nhiều kỹ thuật mộng của người miền xuôi như ăn mộng xuyên qua và có chốt nêm để khóa;
  • Cột và các cấu kiện gỗ khác được sử dụng cưa, bào máy, máy chà nhám, khoan bằng máy. Và cả nhuộm gỗ bằng vec ni;
  • Vài Gươl lợp vật liệu mới như tole;
  • Dùng bào đục, giấy nhám… tạo nên các bề mặt đã chạm khắc thường láng, nhẵn;
  •  Sử dụng nhiều màu để tô vẽ trên các tác phẩm đã điêu khắc trang trí trong và ngoài nhà.
  • Nhiều hình ảnh biểu tượng xa lạ phỏng theo lối trang trí ở miền xuôi (hình quả tim với con chim bồ câu, hình con dơi…)

Nhận xét về GƯƠL đã phục dựng

Người Katu không tu bổ, phục hồi Gươl như người Kinh phục hồi, tu bổ Đình, Chùa. Nếu hỏng thì làm lại mới và có thể dựng nơi khác. Chúng tôi may mắn còn giữ số đo, một số bản vẽ mà nhiều gươl dựng trước năm1995 (nay đã bị hỏng và biến mất). Nhiều Gươl mới dựng lại nhưng không phải Gươl nào cũng đẹp – Như đã nêu trên, sự tùy tiện trong kích thước, và quan trọng nhất là sử dụng các công cụ mới trong chế tác như máy bào, học các kiểu liên kết gỗ (mộng mẹo) của người miền xuôi (bản vẽ minh họa mộng truyền thống của người Katu) và đồng thời tùy tiện chọn các đề tài trang trí khá xa lạ với văn hóa địa phương cũng sẽ giảm đi giá trị của ngôi nhà cộng đồng này. Một điều mà ít người quan tâm khi phục dựng là việc sử dụng các công cụ hiện đại như máy bào, máy chà nhám và nguyên liệu tạo hình với cách tô vẽ bằng sơn, vecni công nghiệp đã tạo một thị giác khác trong thẩm mĩ (8).

Việc sử dụng các cấu kiện như cột, dầm, xà bằng chất liệu khá bền vững như bê tông là cần thiết, hạn chế việc khai thác gỗ từ rừng, giảm việc phá rừng. Tuy nhiên, vì có chất liệu ưu việt nên người thiết kế đã làm cao nền sàn, bố trí các cầu thang tùy tiệ, đưa các kiểu thức kiến trúc từ miền xuôi, xa lạ các tạo hình truyền thống ở vùng núi như vị trí đế cột, đầu cột (hình 19,20). Nên lưu ý là ngôi nhà truyền thống cộng đồng- Gươl của một tộc người nên việc giữ các yếu tố gốc, yếu tố truyền thống về kiến trúc và mỹ thuật, nêu được những vẻ đẹp đặc trưng như kiểu dáng, tỉ lệ kiến trúc, hình ảnh trang trí… Điều này rất quan trọng để phát huy giá trị kiến trúc này. Cuối cùng, quá vội vàng để kết luận về kỹ thuật và tính qui ước của người Katu xưa khi dựng nhà! Theo tập quán làng cũng như các điều kiện về nhân tài, vật lực, làng nhiều người thì dựng Gươl to, ít người thì dựng Gươl vừa. Và như vậy, không thể tùy tiện to – nhỏ, rộng – dài mà chắc rằng người thợ mộc Katu đã có những kinh nghiệm của các kích thước ngày xưa, dù chỉ đo bằng sải tay, cánh tay, khuỷu tay,… Cuối cùng, xin nhắc lại câu trích của Le Pichon: “Nền nghệ thuật KATU chỉ có thể ra đời từ một nền văn minh tương đối cao, với những gì còn lại đang mai một, nếu chúng ta không làm gì để cứu vớt chúng…”

THAY LỜI KẾT

  • Tổ chức một hội thảo bàn về phục dựng Gươl với các tiêu chí mà việc Bảo Tồn là chính yếu. Tìm những giá trị của tri thức bản địa của người dân khi dựng Gươl và cả nhà ở/Đông (nên tổ chức tại làng ở Hòa Bắc nơi người Katu đang sinh sống)
  •  Nếu có điều kiện nên chọn một khu đất có địa hình phù hợp (cảnh quan với suối, sông, đồi), để phục dựng một quần thể các kiến trúc nhà ở/Đông, bao quanh một ngôi nhà chung/Gươl làm một khu du lịch của người bản địa Katu sẽ rất hấp dẫn.
  • Cố gắng sử dụng vật liệu thiên nhiên như: Chọn và dành riêng vùng đất đồi thích hợp để trồng tranh, lá mây, lá kè… để lợp nhà. Trồng các cây cao thân gỗ để để lấy nguyên liệu cho việc bảo tồn, tu bổ kiến trúc. Đây là công việc phải được kế thừa nhiều thế hệ để tăng sự bền vững về công việc bảo tồn và phát triển du lịch.
  • Khi có dự án phục dựng kiến trúc truyền thống này, cần phải mời chuyên gia của chuyên ngành bảo tồn tham vấn.

Nguyễn Thượng Hỷ
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 12-2024)


Chú thích:
(*) Những năm 😯 của thế kỷ 20. Bảo tàng Quảng Nam – Đà Nẵng đã cử nhiều đoàn chuyên môn về nghiên cứu văn hóa của người Katu trong địa bàn tỉnh (trong đó người viết bài này là thành viên tham gia). Tuy nhiên, vùng núi Hòa Bắc, TP Đà Nẵng được xem như vùng thấp của địa bàn người Katu cư trú nên không được quan tâm nghiên cứu. Lý do văn hóa bị ảnh hưởng văn hóa của người Kinh trong đó có kiến trúc. Kết quả đóng góp hiện vật từ vùng Trung, vùng cao của Katu, trong đó có phần kiến trúc cho Bảo tàng Lịch sử TP Đà Nẵng. Những năm 1993 đến 1996, người viết bài này là nhân viên của bảo tàng Quảng Nam – Đà Nẵng đã tham gia chương trình tìm hiểu kiến trúc của người Katu do quỹ TOYOTA tài trợ. Để bảo tồn, lưu giữ hình dáng gốc Gươl, cũng như giới thiệu bản sắc văn hóa của cộng đồng người Katu ở Quảng Nam, tỉnh Quảng Nam và Vùng Nord-Pas de Calais Cộng hoà Pháp hợp tác thực hiện dự án “Phục dựng nhà Gươl Cơtu Quảng Nam” với tổng kinh phí 1,4 tỉ đồng tại khuôn viên của đơn vị Trung tâm Bảo tồn Di sản – Di tích Quảng Nam, 1A Lê Đình Dương – Tam Kỳ; khởi công từ 6/2006 và hoàn thành vào 9/2006 (bản vẽ 6). Và thiết kế phục dựng Gươl cho khu du lịch Suối Lương (bản vẽ 7).
(**) Tham luận “Gươl: Nơi lưu giữ các giá trị nghệ thuật” trong Hội thảo Tính bền vững của Nhà cộng đồng truyền thống trong bối cảnh hiện đại do Khoa Kiến trúc – Trường ĐH Huế và Trường sau ĐH Nghên cứu Môi trường Toàn cầu ĐH Kyoto cùng tổ chức, 2020.
(***) Gươl hay Gưal – khó phát âm. Trong các bài thuyết minh, những video, ta thường nghe với phát âm nhà Gươi là không đúng. Nếu bạn đến thăm làng, thì chỉ cần gọi rõ hơn bằng tiếng Kinh như nhà Đình là người bạn Katu có thể giúp người miền xuôi làm khách trọ hoặc giới thiệu với niềm tự hào.
1)Trong kiến trúc cộng đồng như Rông, Ưng và Gươl, với địa bàn có khí hậu khác nhau là Tây Nguyên và Trường Sơn nên có sự khác nhau. Nếu nhìn vào Rông ta sẽ bắt mắt với ngôi nhà công phu trong việc tạo các hoa văn trên mái, nóc nhà bằng kỹ thuật đan, tô vẽ, nhuộm màu và chỉ phần bên ngoài (ảnh minh hoạ 1). Việc này như sự “hướng ngoại”, mong muốn được khách nhìn ngắm, tạo sự bắt mắt với mọi người. Nhưng phần bên trong nhà thì cả mái, vách, cột bằng gỗ, tre… không được chăm chút trong trang trí. Nếu không muốn nói các cấu kiện giữ, gia cường… khung đỡ mái bên trong nhìn khá rối. Với Gươl thì phần mái bên ngoài phổ biến chỉ trang trí ở bờ nóc, thêm vài hình trang trí đầu trâu ở vách gỗ vị trí thang gỗ bước vào. Nhưng bên trong Gươl với không gian mà tâm thức “hướng nội” thì từ mái tranh, lá kè, lá mây được lợp tạo lớp rất đẹp. Phần đầu hồi, tạo hình dáng như các nan quạt bằng tre, gỗ khiến ta có cảm giác bị hút sâu vào. Chưa kể cột giữa (cột mẹ) các đầu cột, xà, kèo đều được gia cố và đẽo bằng rìu, dao… cẩn thận. Các liên kết của cấu kiện đều được chạm khắc và tô vẽ thật sặc sỡ, tỉ mỉ công phu. Các khói từ bếp nấu bên dưới tỏa lên với thời gian, tạo các vật liệu tre, lá óng ánh, ấm cúng (ảnh minh hoạ 2).
(2) Cũng có hình dáng giống nhau nhưng người Tà Ôi (địa bàn sinh sống tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Trị đến Thanh Hóa) gọi ngôi nhà cộng đồng nầy là Roong, nhà Ở là Doang.
(3) Khi tham gia cùng nhà nghiên cứu Tạ Đức về phục dựng Gươl ở làng Về Nguồn thuộc xã Hương Hồ, Thừa Thiên Huế (dự án do quỹ Ford tài trợ,1994 với chủ trì là Nhà nghiên cứu Mai Khắc Ứng). Theo ông Tạ Đức, vách bằng gỗ hoặc bằng tre đan để khách ngồi tựa lưng là đặt nghiêng. Phần trên nghiêng ra ngoài, hôm nay không thấy xuất hiện.
(4) Năm 1995, trong dịp đi du học về công việc bảo tồn kiến trúc cổ, theo đề nghị của GS.KTS Shiigeda Yukata – Nhật Bản, tôi có bài nói chuyện Giới thiệu về kiến trúc Gươl tại Đại học NIHON, Tokyo, Nhật Bản.
(5) Việc dựng nhà của các dân tộc miền núi Trường Sơn và Tây Nguyên có phương cách chung là dựng từng cột, khác với người Kinh miền xuôi (dựng một đơn vị là bộ vì hoặc bộ vì kèo). Trong năm 1981, khi đóng quân ở làng dân tộc Giarai (Jrai) của huyện Chư Pah nay thuộc tỉnh Gia Lai, tôi đã cùng các anh – cả một đại đội hơn 100 người khiêng giúp một ngôi nhà có khung sườn bằng tre và gỗ đặt trên các cột đã chôn. Có nơi mái đã lợp xong và chỉ việc đặt lên các đầu cột. Với Gươl thì kiến trúc lớn, cách dựng nhà là dựng cột giữa (Zơrmâng) trước và cột này có phần đỉnh cột gắn luôn với cây đòn nóc (pơpung căn, dơ dinh). Ý nghĩa việc lắp đặt này là đàn ông (cây đòn nóc) gắn vào cột giữa/ cột mẹ là đàn bà – theo các già làng ở xã Thượng Long, huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế. Từ cột trung tâm nầy người ta sẽ dựng tiếp các cột con hai đầu hồi và liên kết thanh kèo nối theo độ nghiêng của mái với đòn nóc ở hai đầu. Dĩ nhiên, người thợ dựng nhà cũng đã ướm thử trước dưới đất mà người thợ mộc người Kinh gọi là “sàm”. Một chi tiết thú vị là khi thi công phần lợp mái nhà của Gươl tại làng Về Nguồn của dự án do quỹ FORD tài trợ cho nhà nghiên cứu Mai Khắc Ứng thực hiện là người thợ Katu huyện Nam Đông, huyện Nam Giang (thôn Vinh), huyện Đông Giang phối hợp lợp nhà từ trên xuống (hình 22) (bài viết của cùng tác giả trên Tạp chí kiến trúc số 03,2016).
(6) Lưu ý là độ dốc của hai mái đầu hồi mà chúng ta thấy qua mặt đứng của mặt chính khác với độ dốc của mặt đứng nhìn từ mặt bên (hai mái trước sau). Sự khác nhau vì khi làm phần cong của mái hồi nhiều gươl đã đưa cây gỗ làm đòn nóc (dơ dinh) lớp mái ra nhiều quá thì sẽ có mái với độ dốc lớn, và ngược lại ngắn đi thì mái có dộ dốc ít (bản vẽ A minh họa).
(7) Là Gươl chủ yếu dành cho cán bộ nhân viên của cơ quan sinh hoạt trong giờ nghỉ, thư giãn hoặc liên hoan… không nhất thiết phải làm đúng như truyền thống nên mái tranh của mặt chính có thêm phần mái tam giác để tạo tiền sảnh long trọng khi bước vào và cải tiến thêm phần âm ở sàn để ngồi cho thỏa mái. Nhưng với kích thước nhỏ, nếu đứng mặt sau nhìn ta có thể cảm nhận sự hợp lý, xinh xắn vì đã có một tỉ lệ của độ dốc, mái tranh với thân nhà khá chuẩn.
(8) Trong việc sử dụng các công cụ để gia công gỗ như dùng rìu, dao, rựa để đẽo, gọt… nhưng nếu dùng công cụ đục, bào, làm nhẵn thì mỗi tác phẩm qua điêu khắc thủ công hay máy đều mang cho ta thị giác với cảm nhận từ mắt rất khác nhau. Với cây cột hay tấm ván được đẽo, khắc tạo hình người, thú hay cây cỏ bằng nhát đẽo thủ công chắc chắn khác với máy cắt, bào, gọt đánh bóng bằng động cơ điện. Vậy những cột được đẽo bằng rìu thì những vết tạo hình sần sùi sẽ cho ta cảm giác hoang sơ hơn là hiện đại, gần với cách tạo hình nguyên thuỷ hơn.
(9) Người Katu khi dựng nhà, ngày trước dùng đơn vị đo bằng sải tay, cánh tay, từ chỏ đến đầu ngón tay… làm đơn vị và dĩ nhiên có tên gọi từng bộ phận đến 18 đơn vị trên cơ thể. Việc điều tra và ghi lại hình ảnh đã được TS.KTS Nguyễn Ngọc Tùng, Trưởng Khoa Kiến trúc – ĐH Khoa học Huế cùng đồng nghiệp thực hiện tại thôn A Ka, huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế. (hình 21).

Tài liệu tham khảo
1. Le Pichon (1938), Les Chasseurs de Sang (BAVH, No.4);
2. KaJ Athem (2010) the KATU vilage, An interpretive Ethnography of the Avuong KATU, (Gươl, the Community house. Page 258-259).University of Gotherburg,Intellecta 2010.Sweden
3. Tạ Đức (2002): “Tìm hiểu văn hóa văn hóa Katu” – NXB Thuận Hóa;
4. Nguyễn Thượng Hỷ (2016): “Suy nghĩ về tỉ lệ Gươl” – Tạp chí Kiến trúc số 09/2016
5. Nguyễn Thượng Hỷ (2016): “Câu chuyện lợp mái nhà” – Tạp chí Kiến trúc số 03/2016
6. Nguyễn Ngọc Tùng, Trương Hoàng Phương, Miki Yoshizumi, Kobayashi Hirohide (đồng chủ biên) (2020): “Tính bền vững của nhà cộng đồng truyền thống trong bối cảnh hiện đại” – NXB Thuận Hóa.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *